Thứ Tư, 24 tháng 3, 2010

Có ý kiến cho rằng cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ở tỉnh nhà chưa chuyển động, còn im ắng. Nhận định đó hoàn toàn thiếu xác thực. Có thể nói, Bến Tre tổ chức phát động cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh khá sớm (dịp kỷ niệm 77 năm Ngày thành lập Đảng cộng sản Việt Nam 3-2-2007). Quán triệt Chỉ thị 06 của Bộ Chính trị (khóa IX) và Hướng dẫn của Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (nay là Ban Tuyên giáo Trung ương), Tỉnh ủy Bến Tre tiến hành lập ban chỉ đạo cấp tỉnh do đồng chí Bí thư Tỉnh ủy làm trưởng ban và xây dựng kế hoạch số 15-KH/TU “thực hiện chỉ thị 06-CT/TW của Bộ Chính trị về tổ chức cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và chỉ đạo tổ chức quán triệt trong toàn hệ thống chính trị. Tất cả các cấp ủy Đảng đều thành lập ban chỉ đạo, xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện từng bước cụ thể.

Image
Người làm việc trong hang đá ở Việt Bắc.

Về tổ chức học tập, quán triệt tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh và hai tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, và Di chúc” được tiến hành chặt chẽ, quy mô và đồng loạt. Sau khi lực lượng báo cáo viên cấp tỉnh tập huấn ở Trung ương về có sự chuẩn bị đề cương chi tiết tập huấn cho lực lượng báo cáo viên các huyện, thị và các Đảng ủy trực thuộc Tỉnh ủy. Bước tiếp theo là các đồng chí trưởng, phó Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy trực tiếp giới thiệu quán triệt sâu cho đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp huyện, thị, các ngành trong khối Tuyên giáo cấp tỉnh. Và, sau đó học tập đồng loạt ở khắp các chi bộ, Đảng bộ trong tỉnh.

Có thể nói, cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã thu hút sự quan tâm của cả hệ thống chính trị và nhân dân. Chính vì thế mà việc triển khai, quán triệt trong Đảng đã thu hút đông đảo cán bộ, đảng viên dự học với tinh thần thái độ hết sức nghiêm túc. Tỷ lệ đảng viên học tập trong các Đảng bộ, chi bộ đạt từ 95 đến 99,5%. Số còn lại, chưa được học sẽ được tổ chức học vét, đảm bảo mỗi đảng viên đều phải được học, đó là tinh thần chỉ đạo của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy.

Về công tác tuyên truyền, hệ thống cơ quan báo, đài tỉnh, đài huyện, xã đã tập trung tuyên truyền liên tục cho cuộc vận động với các chuyên mục, chuyên đề giới thiệu những mẫu chuyện về Bác Hồ sát với nội dung cuộc vận động.

Như vậy, cơ bản bước triển khai học tập trong cán bộ, đảng viên đến 19-5-2007 đã hoàn thành và kết thúc học tập ra đoàn viên, hội viên, nhân dân vào cuối tháng 5-2007.

Ban chỉ đạo cấp tỉnh đang tập trung chỉ đạo thực hiện bước 2, tiến hành lấy ý kiến đóng góp của quần chúng, nhân dân cho cán bộ, đảng viên. Sau đó cấp ủy tập hợp giới thiệu cho đảng viên tiếp thu góp ý, tiến hành tự phê bình, xây dựng phương hướng, nội dung tu dưỡng, rèn luyện theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ phù hợp với đặc điểm nghề nghiệp nhiệm vụ công tác. Trên cơ sở ưu điểm, khuyết điểm của đảng viên trong chi bộ qua tiếp thu góp ý của quần chúng và qua tự phê bình, chi ủy các cấp xây dựng chương trình hành động thực hiện và kế hoạch quản lý đạo đức, lối sống cán bộ, đảng viên.

Đây là bước quan trọng, quyết tâm của Ban chỉ đạo cấp tỉnh và các cấp ủy Đảng là hoàn thành bước 2 vào cuối năm, sẽ tạo sự chuyển biến nhận thức của cán bộ, đảng viên về vị trí và tầm quan trọng của đạo đức, lối sống trong Đảng ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của Đảng, chế độ và dân tộc. Mỗi đảng viên phải nhận thức rõ việc tự phê bình và phê bình sau khi có sự góp ý của nhân dân, chi bộ soi rọi với tấm gương đạo đức của Bác Hồ là để thấy rõ ưu điểm của mình mà phát huy và để hạn chế, khắc phục khuyết điểm. Đồng thời, góp ý với đồng chí mình trên tinh thần xây dựng đồng chí mình tốt hơn chứ không phải là đấu đá, lật đổ lẫn nhau, làm cho nội bộ mất đoàn kết. Nghĩa là qua bước tự phê bình và phê bình cá nhân chuyển lên tốt hơn về đạo đức, lối sống và nội bộ đoàn kết thân yêu hơn, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp ủy, chi bộ, đảng viên được nâng lên. Đây là yêu cầu cơ bản mà mỗi cán bộ, đảng viên phải nhận thức cho đúng để thực hiện. Các cấp ủy cần lãnh đạo tốt công tác này, không để đảng viên lợi dụng đợt sinh hoạt này để công kích, triệt tiêu lẫn nhau.

Như đã trình bày ở Bài 1, cuộc vận động này chúng ta tiến hành trên cơ sở rút kinh nghiệm từ những thành công và chưa thành công qua 7 năm thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và 3 năm thực hiện việc đẩy mạnh nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh. Đây là một chủ trương lớn, vừa mang tính cấp bách trong bối cảnh hiện nay, vừa có ý nghĩa lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cuộc vận động này tiến hành bằng việc kết hợp tất cả các giải pháp, trong đó giải pháp chính trị tư tưởng được xem là giải pháp chủ yếu. Thông qua cuộc vận động này, chúng ta tiến hành giáo dục trong toàn Đảng, đoàn viên, hội viên, thanh niên và nhân dân nhận thức sâu sắc về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng đạo đức và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Image
Người thưởng huy hiệu cho các chiến sĩ có nhiều chiến công ở Điện Biên Phủ.

Yêu cầu của cuộc vận động là phải nâng cao cho được nhận thức trong cán bộ, đảng viên về vị trí và tầm quan trọng về đạo đức của Đảng đối với vận mệnh của Đảng, vận mệnh của chế độ, vận mệnh của đất nước, đặc biệt là hạnh phúc của dân tộc. Qua đó, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tu dưỡng, rèn luyện và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh trong toàn xã hội, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên có chức có quyền từ trung ương đến cơ sở, trong thanh niên, học sinh… nâng cao đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; đồng thời gắn với việc quản lý, giám sát về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; quyết tâm đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên.

Dân tộc ta, Đảng ta có một diễm phúc rất lớn là có vị lãnh tụ vĩ đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bác Hồ đã để lại cho Đảng ta, dân tộc ta một sự nghiệp vĩ đại, đó là sự nghiệp độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và một di sản tinh thần rất quý báu là tư tưởng Hồ Chí Minh, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Do đó, chúng ta phải quán triệt cho toàn thể cán bộ, đảng viên về tấm gương đạo đức của Bác Hồ để mọi người học tập noi theo.

Nội dung nghiên cứu, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, cần tập trung nghiên cứu sâu tác phẩm “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”, tác phẩm “Di chúc” và tấm gương đạo đức của Người, tập trung vào các phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức phục vụ nhân dân, đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí.

Yêu cầu quán triệt nữa là việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn liền với việc triển khai thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng, với cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng với phong trào thi đua yêu nước ở từng địa phương cơ sở.

Chúng ta nhận thức rằng, qua hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, nhân dân ta đã giành được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Những thành tựu về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh và ngoại giao đã tạo thế và lực mới cho cách mạng Việt Nam. Có thể nói, chưa bao giờ thế và lực của đất nước ta mạnh như hiện nay, vị thế của nước ta cao như hiện nay. Chính những thắng lợi to lớn đó là nhân tố quyết định tạo ra thời cơ lớn cho nước ta phát triển nhanh hơn trong thời gian tới.

Image
Hồ Chủ tịch cùng các đồng chí lãnh đạo Đảng quyết định mở chiến dịch Điện Biên (1953)

Trên trường quốc tế, chưa bao giờ nước ta bình thường hoá quan hệ với tất cả các nước như hiện nay; đặc biệt là bình thường hoá và có vị thế cao trong quan hệ với tất cả các cường quốc trên thế giới như Nga, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, và Liên minh châu Âu (EU). Việt Nam đã góp phần thúc đẩy xu thế chung của thế giới hiện nay, đó là xu thế hoà bình, hợp tác phát triển, xu thế toàn cầu hoá và phát triển mạnh mẽ cách mạng khoa học và công nghệ. Chính vì thế, Đại hội X của Đảng ta nhận định cách mạng Việt Nam đang đứng trước thời cơ lớn. Từ đó, Đại hội X cũng đi đến quyết định trong 5 năm tới đưa Việt Nam thoát khỏi một nước nghèo và đến 2020 Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Như vậy, hiện nay Đảng ta đang đứng trước một sứ mệnh lịch sử mới là lãnh đạo toàn dân tộc thực hiện khát vọng ngàn đời là xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Lịch sử giao cho Đảng ta nhiệm vụ rất nặng nề. Để đủ sức hoàn thành sứ mệnh lịch sử nặng nề và đầy vinh quang trên, đòi hỏi Đảng ta phải nâng cao cho được năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Bác Hồ - Người sáng lập và rèn luyện, lãnh đạo Đảng ta từng nói: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”. Như vậy, Bác khẳng định thành tố đầu tiên tạo nên năng lực lãnh đạo của Đảng là đạo đức. Vì vậy, yêu cầu xây dựng cho được nền tảng đạo đức vững vàng của Đảng là yêu cầu đầu tiên, cơ bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Đó là lẽ thứ nhất.

Thứ hai, Đảng ta phát động cuộc vận động này trên cơ sở sau 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có bước trưởng thành trong điều kiện mới, nhưng cũng đối mặt với những nguy cơ và thách thức rất lớn. Đó là sự suy thoái về tư tưởng chính trị và cả về đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Trước đây, Đảng ta đã mở cuộc vận động đẩy mạnh việc nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh (theo tinh thần Chỉ thị 23-CT/TW, Bộ Chính trị khoá IX). Đại hội X đã tổng kết, đánh giá là cuộc vận động đã đạt được kết quả bước đầu, nhưng trong Đảng tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn chưa được ngăn chặn và đẩy lùi mà ngày càng diễn biến phức tạp. Tình hình trên là rất nghiêm trọng nên Đại hội X của Đảng nhận định, nếu chúng ta không ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, Đảng ta đã tiến hành cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết TW6 (lần 2) khoá VIII đạt một số kết quả nhất định, nhưng Đại hội X đánh giá là không đạt yêu cầu đề ra. Xuất phát từ yêu cầu sứ mệnh lịch sử của Đảng ta trong giai đoạn mới và rút kinh nghiệm từ hai cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đẩy mạnh nghiên cứu, học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, Trung ương Đảng quyết định phát động cuộc vận động chính trị “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” với quyết tâm cao nhất là ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và tham nhũng trong cán bộ, đảng viên; nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, hoàn thành sứ mệnh lịch sử trong giai đoạn mới.

Đã tiếp thu, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cách mạng không phải ai cũng thực hiện được. Theo Bác Hồ, thì chỉ có những người có cái tâm trong sáng mới đủ bản lĩnh và năng lực lãnh hội được những chuẩn mực của đạo đức cách mạng. Và, khi đạo đức cách mạng đã vững rồi thì “giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không chuyển lay, uy vũ không khuất phục”. Đây cũng là phẩm chất của người đảng viên cộng sản. Đức tính trên cũng được coi là khí phách của đấng trượng phu của thời phong kiến. Nhưng với người cán bộ cách mạngm, đạo đức cách mạng dù bất luận hoàn cảnh nào đều phải giữ mình; trước sự giàu sang không thể làm cho mình thèm muốn, sự nghèo khó cũng không thể làm cho mình lay chuyển, nao núng; uy quyền, võ lực, hay dù phải đứng trước cái chết cũng không thể làm cho mình khuất phục, đầu hàng.

Image
Hồ chủ tịch trong phòng làm việc ở căn cứ Việt Bắc.

Chúng ta biết rằng, học trên sách vở thì rất dễ, nhưng việc lãnh hội, rèn luyện và thực hành là cực kỳ khó. Cho nên, muốn có được đạo đức cách mạng, mỗi cán bộ, đảng viên cần thực hiện tốt các nguyên tắc sau:

Nói đi đôi với làm, nêu gương tốt, làm việc tốt.

Nói đi đôi với làm, nêu gương tốt làm việc tốt. Đây không chỉ là nguyên tắc rèn luyện mà còn là sự phân biệt giữa đạo đức cách mạng và phi đạo đức cách mạng. Chúng ta biết, nói mà không làm là đặc tính của giai cấp bóc lột, cho nên, lời nói phải đi đôi với việc làm và phải thực hiện việc làm gương - đó là đạo đức của người cách mạng. Bác từng nói: "Một tấm gương sống còn có giá trị hơn 100 bài diễn văn tuyên truyền", "trước mắt quần chúng, không phải cứ viết lên trán hai chữ cộng sản mà ta được họ yêu quý. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức". Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước. Hô hào dân tiết kiệm, mình phải tiết kiệm trước đã..” Cho nên, đảng viên phải làm gương mọi mặt cho quần chúng noi theo. Thực hiện đúng lời dạy của Bác “Đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Việc làm gương phải thực hiện ở mọi nơi, mọi việc, phải quán triệt trong toàn Đảng và toàn hệ thống chính trị, từ cán bộ cấp Trung ương đến tận cơ sở.

Bác Hồ kính yêu là tấm gương nói đi đôi với làm. Cho nên, ở Người có sức thuyết phục lớn, có một sức hút mãnh liệt làm cho cả dân tộc, các giai tầng xã hội, các thế hệ người Việt Nam đều tin tưởng, kính phục, yêu quý và đi theo lời kêu gọi của Người. Các vị lãnh tụ cộng sản và nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới cũng kính yêu Người.

Xây đi đôi với chống.

Nghĩa là đồng thời với việc giáo dục, xây dựng, rèn luyện đạo đức cách mạng phải đi đôi với đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, chống những hành vi phi đạo đức.

Việc xây dựng đạo đức cách mạng không phải dễ dàng, bởi ai lại không thích quyền lực, ai thấy vàng, tiền bạc, nhà cao cửa rộng lại không ham, cho nên đấu tranh để thắng những ham muốn của bản thân mình là một cuộc đấu tranh gay go và phức tạp. Nhưng nếu chúng ta kiên quyết thì sẽ thành công. Hơn nữa, trong Đảng, trong mỗi con người vì những lý do khác nhau, nên không phải mọi người đều tốt. Bác Hồ chỉ rõ những kẻ địch cần chống trước hết là chống thói quen và truyền thống lạc hậu; và đặc bịêt là chống chủ nghĩa cá nhân đang ẩn chứa trong mỗi con người, khi có điều kiện tác động nó sẽ phát triển. Cho nên, Bác yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên "trước hết phải đánh thắng lòng tà là kẻ thù trong mình". Và phải phê phán đấu tranh loại bỏ hàng trăm thứ bệnh do chủ nghĩa cá nhân gây ra vì nó là vật cản nguy hiểm cho việc xây dựng đạo đức cách mạng. Cho nên, chúng ta chống là nhằm để xây dựng, đi liền với xây và lấy xây làm chính, lấy gương tốt để giáo dục và xây dựng đạo đức cách mạng cho mỗi người và đạo đức trong Đảng.

Tu dưỡng bền bỉ suốt đời.

Bác đã chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do quá trình đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".

Việc tu dưỡng đạo đức cách mạng phải trên tinh thần tự giác, tự nguyện, dựa vào lương tâm của mỗi người và sự đóng góp xây dựng của tập thể của quần chúng. Người khẳng định, đã là người thì ai cũng có chỗ hay, chỗ dở, chỗ xấu, chỗ tốt, ai cũng có thiện, có ác ở trong mình. Nhưng tốt, xấu, hiền, dữ, thiện, ác đều lệ thuộc vào sự giáo dục và rèn luyện mà nên. Cho nên, vấn đề là chúng ta phải biết và dám dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật bản thân con người mình và dựa vào tập thể để thấy cái tốt, cái hay để phát huy, cái xấu, cái ác để khắc phục. Đã là con người thì khó tránh khỏi vấp phải khuyết điểm, sai lầm. Vấn đề là phải dũng cảm nhìn nhận sai lầm, khuyết điểm để sửa chữa, khắc phục. Và, việc tu dưỡng đạo đức cách mạng phải gắn liền với thực tiễn hoạt động cách mạng, phải bền bỉ, ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Bác đã viết “tư tưởng cộng sản với tư tưởng cá nhân ví như lúa với cỏ dại. Lúa phải chăm bón rất khó nhọc thì mới tốt được. Còn cỏ dại không cần chăm sóc cũng mọc lên lu bù. Tư tưởng cộng sản phải rèn luyện mới có được. Còn tư tưởng cá nhân thì cũng như cỏ dại, sinh sôi, nảy nở rất dễ. Vì vậy gột rửa chủ nghĩa cá nhân ví như rửa mặt thì phải rửa hàng ngày".

Cho nên, xây dựng, rèn luyện tu dưỡng đạo đức cách mạng và chống chủ nghĩa cá nhân là phải được tiến hành đồng thời, thường xuyên, bền bỉ, suốt đời trong quá trình hoạt động cách mạng.

Trên đây là 3 nguyên tắc cơ bản rèn luyện đạo đức của cá nhân để trở thành người có đạo đức cách mạng. Mỗi cán bộ, đảng viên nếu thực tâm làm theo lời Bác thì sẽ hoàn toàn thực hiện được. Vì những điều Bác dạy, không phải chỉ có vĩ nhân hay lãnh tụ mới thực hiện được, mà mọi người đều thực hiện được vì đó là những điều rất bình dị trong cuộc sống của mỗi người.

Chủ tịch Hồ Chí minh là lãnh tụ cách mạng quan tâm nhiều nhất đến vấn đề nâng cao đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Đặc biệt, từ khi Đảng cầm quyền, Bác càng quan tâm đến vấn đề này hơn. Trong di sản mà Bác để lại cho toàn Đảng, toàn dân, có nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết chỉ bàn về đạo đức cách mạng và mặt đối lập với đạo đức cách mạng là chủ nghĩa cá nhân.

Theo Bác Hồ, chủ nghĩa cá nhân hoàn toàn trái với đạo đức cách mạng. Định nghĩa về chủ nghĩa cá nhân, Bác Hồ viết: "Chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng lo cho lợi ích riêng của mình, không quan tâm đến lợi ích của tập thể, miễn mình béo, mặc thiên hạ gầy".

Image
Người quan tâm đến vấn đề nhà ở của nhân dân lao động (1959)

Hay "chủ nghĩa cá nhân là một thứ rất gian giảo, xảo quyệt, nó khéo dỗ dành người ta đi xuống dốc. Nó là thứ vi trùng rất độc, đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: Tham ô, hủ hoá, lãng phí, xa hoa, tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành, tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, độc quyền, quan liêu, mệnh lệnh, lười biếng v.v…

Vì vậy, để giữ vững đạo đức cách mạng, thì bất cứ trong điều kiện, hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. "Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa, cho nên, thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh từ bỏ chủ nghĩa cá nhân".

Xét mối quan hệ này, chúng ta cần nhận thức thống nhất giữa lợi ích chung và lợi riêng. Cần phân biệt đúng đắn giữa chủ nghĩa cá nhân và lợi ích cá nhân. Như nói ở trên, theo Bác Hồ, chủ nghĩa cá nhân là việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo "mình vì mọi người" mà chỉ muốn "mọi người vì mình". Cho nên, phải "quét sạch chủ nghĩa cá nhân". "Nhưng đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân không phải là gây xéo lên lợi ích cá nhân. Vì mỗi người đều có đời sống riêng. Mỗi người đều có quyền làm giàu cho bản thân và gia đình mình; nhưng những lợi ích đó không trái với lợi ích của tập thể, lợi ích của Đảng, của tổ quốc, dân tộc".

Nếu để chủ nghĩa cá nhân phát triển thì sẽ ảnh hưởng xấu đến Đảng, dân tộc. Bác chỉ rõ: "Một dân tộc, một Đảng và một con người ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất thiết hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân".

Cho nên, chủ nghĩa cá nhân là kẻ thù của đạo đức cách mạng, kẻ thù của chủ nghĩa xã hội. Người cách mạng, cán bộ, đảng viên phải "quét sạch" nó.

Đi sâu nghiên cứu di sản tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, chúng ta thấy Bác có những lời dặn dò về những chuẩn mực đạo đức cụ thể cho từng đối tượng, từ cán bộ, đảng viên, nông dân, trí thức, công an, bộ đội, cho đến văn nghệ sĩ, nhà báo, thanh niên, thiếu niên. Ở đây, chúng ta đi sâu nghiên cứu những chuẩn mực của nền đạo đức cách mạng, mà Bác Hồ yêu cầu cán bộ, đảng viên phải xây dựng:

TRUNG VỚI NƯỚC, HIẾU VỚI DÂN, QUYẾT TÂM PHẤN ĐẤU SUỐT ĐỜI HY SINH VÌ ĐỘC LẬP, TỰ DO CỦA TỔ QUỐC VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Xét về mối quan hệ của đạo đức thì Bác Hồ đặt ưu tiên hàng đầu cho mối quan hệ giữa dân với nước, giữa nhân dân với tổ quốc. Đây là mối quan hệ chi phối tất cả các mối quan hệ khác. Chính vì vậy, Bác Hồ đặt phẩm chất trung với nước, hiếu với dân là phẩm chất hàng đầu của người đảng viên. Trung hiếu là khái niệm thuộc đạo đức truyền thống nhưng được Bác Hồ vận dụng theo quan điểm mới phù hợp với hoàn cảnh mới của lịch sử.

Image
Bác Hồ với thiếu nhi

Theo quan điểm Bác Hồ, “trung với nước, hiếu với dân” có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau. Vì “dân là dân của nước, nước là nước của dân”. Nghĩa là nhân dân là chủ của đất nước. Còn theo quan điểm của đạo đức phong kiến, coi nước là của vua, vua là người quyết định tất cả, còn dân chỉ có nhiệm vụ làm tôi trung theo quan điểm “Quân xử thần tử thần bất tử bất trung” (Vua xử tôi phải chết thì tôi phải chết, không tuântheo lệnh vua là tôi không trung thành). Rõ ràng, quan điểm của Bác hoàn toàn khác hẳn với quan niệm của đạo đức phong kiến. Bác Hồ chỉ rõ: “Trung là trung với tổ quốc, hiếu là hiếu với nhân dân”. Và cũng chính Người là biểu tượng cao đẹp thể hiện phẩm chất này. Suốt cuộc đời vì dân, vì nước. Đến khi chuẩn bị vĩnh biệt thế giới này Bác cũng tính toán sao cho khỏi tốn kém thì giờ và tiền bạc của nhân dân đối với việc riêng của mình. Bác khẳng định: “Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích là làm cho ích nước, lợi dân”.

Còn “hiếu với dân” được Bác cụ thể hóa bằng chủ trương “Đảng và Chính phủ là đày tớ của nhân dân”, “chính quyền phải có trách nhiệm lo cho dân: Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân có học hành”. Bác còn chỉ rõ: “Chính sách của Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng ta và Chính phủ có lỗi. Vì vậy, cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân”. Bác dạy rằng cán bộ các cấp đều là “công bộc của dân, nghĩa là gánh vác việc chung cho dân”. Và, “việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”. Phẩm chất trung với nước, hiếu với dân được coi là hạt nhân cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh.

YÊU THƯƠNG, QÚI TRỌNG CON NGƯỜI

Qua nghiên cứu, chúng ta thấy rằng Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy truyền thống nhân ái, nhân nghĩa của dân tộc kết hợp với chủ nghĩa nhân văn của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa nhân văn cộng sản chủ nghĩa. Bác Hồ đã xác định phẩm chất yêu thương, quý trọng con người là một trong những phẩm chất, chuẩn mực đạo đức cách mạng cao đẹp nhất của người đảng viên.

Lòng yêu thương con người của Bác Hồ trước hết là dành cho đại đa số nhân dân lao động, người nghèo khổ, bị áp bức, bóc lột trên hành tinh chúng ta. Tình yêu thương con người của Bác thật bao la. Tình yêu thương con người đối với đồng bào mình, Bác Hồ chỉ có một ham muốn duy nhất là: “Tôi chỉ có một ham muốn duy nhất, ham muốn tột bật là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Đối với Bác Hồ, cả cuộc đời chỉ vì dân, vì nước không có gì lớn lao và quý báu hơn dân với nước. Thương yêu dân tộc mình, thương yêu con người. Bác từng nói: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đấu cho quyền lợi của tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích đó”.

Tấm lòng yêu thương con người của Bác Hồ còn được thể hiện rõ trong quan hệ đồng chí, đồng đội, anh em. Nhưng đối với bản thân mình Bác đòi hỏi phải nghiêm khắc, nhưng đối với bạn bè, đồng chí phải rộng rãi, đòi hỏi tất cả mọi người phải có sự tôn trọng con người, tôn trọng lẫn nhau. Đối với cán bộ, đảng viên, Bác dạy học chủ nghĩa Mác-Lênin là để thương yêu nhau hơn. Bác nói: “Học chủ nghĩa Mác-Lênin là để sống với nhau cho có nghĩa, có tình”. Đối với Bác chỉ có nâng con người lên, chứ không cho phép hạ thấp, vùi dập con người xuống, dù cho họ có khuyết điểm, thiếu sót. Vì vậy, phải thực hiện tự phê bình và phê bình nhằm nâng cao điểm tích cực, hạn chế những tiêu cực để mỗi người,ngày càng tốt hơn, có ích hơn cho Đảng, cho đất nước. Và, Bác khuyên mọi người trong tự phê bình phải thẳng thắn, chân thành để giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Bác dạy “Ở đời ai cũng có chỗ tốt, chỗ xấu. Ta phải khéo nâng cao chỗ tốt, khéo sửa chữa chỗ xấu cho họ”. Đối với Đảng, Bác đòi hỏi “Đảng phải thương yêu cán bộ, nhưng thương yêu không phải vỗ về, nuông chiều, thả mặc. Thương yêu là giúp cho họ học tập thêm, tiến bộ thêm”.

Tình thương yêu con người, thương yêu nhân dân của Bác càng thể hiện rõ hơn trong Di chúc của Bác. Trong Di chúc, Bác căn dặn Đảng và Chính phủ thực hiện công việc đầu tiên trong hàn gắn vết thương sau chiến tranh là “Đầu tiên là công việc đối với con người”. Đầu tiên là đối với cán bộ, binh sỹ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong; đối với các liệt sĩ; với cha, mẹ, vợ, con thương binh, liệt sĩ; với phụ nữ, nông dân…. cuối cùng là những nạn nhân của chế độ cũ…Bác không bỏ xót đối tượng nào cả, thể hiện một tấm lòng thương yêu đối với tất cả mọi người.

CẦN KIỆM LIÊM CHÍNH

Đức tính “cần, kiệm, liêm, chính” theo Hồ Chí Minh là nền tảng của đời sống mới, là phẩm chất hàng đầu của đạo đức cách mạng. Đây là những đức tính mà bản thân mỗi cán bộ, đảng viên lấy đó để điều chỉnh, soi rọi, thực hiện trong mọi hoạt động. Cần kiệm, liêm, chính - cũng là phẩm chất của đạo đức truyền thống, nhưng được Bác Hồ đưa vào những nội dung theo yêu cầu mới, khác cơ bản về đối tượng thực hiện. Trong chế độ phong kiến cũng nêu những khái niệm cần, kiệm, liêm, chính, nhưng họ bắt nhân dân thực hiện để phục vụ cho quyền lợi của họ, chứ giai cấp phong kiến không bao giờ thực hiện. Còn đối với Bác Hồ, đề ra cần, kiệm, liêm, chính là bắt buộc cán bộ, đảng viên phải làm gương thực hiện để nhân dân noi theo, đem lợi ích cho dân, cho nước.

Tháng 3-1947, do nhu cầu “kháng chiến, kiến quốc” Bác kêu gọi thi đua xây dựng “đời sống mới là cần, kiệm, liêm, chính” và giải thích rất rõ, dễ hiểu. Tháng 6-1949, để tiếp tục răn dạy cán bộ về đạo đức, Bác viết tác phẩm “Cần, kiệm, liêm, chính”. Bác coi bốn đức tính “cần, kiệm, liêm, chính” là những đức tính của người cán bộ cách mạng, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương. Bác viết:

“Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Người có bốn đức: Cần, kiệm. liêm, chính.

Thiếu một mùa thì không thành trời.

Thiếu một phương thì không thành đất.

Thiếu một đức thì không thành người".

Sau đó, Bác còn viết bốn bài báo đăng trên báo Cứu quốc giải thích rõ nội hàm bốn đức tính này.

Trước hết, nói về cần: “Cần - làm việc phải đến đúng giờ, chớ đến trễ về sớm. Làm cho chóng, cho chu đáo. Việc ngày nào nên làm xong ngày ấy, chớ để ngày mai. Phải nhớ rằng: Dân đã lấy tiền mồ hôi, nước mắt để trả lương cho ta trong những thì giờ đó. Ai lười biếng tức là lừa gạt dân.” Bác yêu cầu mọi người phải cần, cả nước phải cần, Bác viết:

“Người siêng năng thì mau tiến bộ.

Cả nhà siêng năng thì chắc ấm no.

Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh.

Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu.”

Tóm lại, cần là luôn luôn cố gắng, luôn luôn chăm chỉ, cả năm, cả đời. Phải thấy rõ “lao động là nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi chúng ta”. Nhưng không phải quá trớn, phải biết nuôi dưỡng tinh thần và sức lực để làm việc cho lâu dài. Bác cho rằng “lười biếng là kẻ địch của cần”, vì vậy, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc.

- Nói về Kiệm: Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ của dân, của nước, của bản thân mình; tiết kiệm từ cái to, tới cái nhỏ. Kiệm là không xa xỉ, không lãng phí, không bừa bãi.

Cần, kiệm là phẩm chất của mọi người lao động trong đời sống trong công tác. Cần và kiệm phải đi đôi với nhau, như hai chân của con người.

Cần mà không Kiệm, “thì làm chừng nào xào chừng ấy” cũng như cái thùng không có đáy, nước đổ vào chừng nào chảy ra hết chừng ấy, không lại hoàn không.

Bác yêu cầu “phải lãnh đạo tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và tiết kiệm”. Vì “dân đủ ăn, đủ mặt thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra sẽ đễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được”.

Cho nên, Kiệm mà không Cần, thì không tăng thêm, không phát triển được. Mà vật gì không tiến tức là thoái.

Nhưng tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không phải “xem đồng tiền bằng cái nống” gặp việc đáng làm cũng không làm, đáng tiêu cũng không tiêu. Tiết kiệm không phải ép bộ đội, nhân dân nhịn ăn, nhịn mặc; nhưng khi không nên tiêu xài thì một đồng xu cũng không nên tiêu. Khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho tổ quốc, thì bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới là kiệm. Việc đáng tiêu mà không tiêu là bủn xỉn, chứ không phải là kiệm. Tiết kiệm phải kiên quyết không xa xỉ. Việc đáng làm trong một giờ mà kéo dài hai, ba giờ là xa xỉ. Cán bộ, đảng viên ăn sang, mặc đẹp trong lúc đồng bào còn nghèo, thiếu cơm, thiếu áo là xa xỉ. Vì vậy, xa xỉ là có tội với tổ quốc, với đồng bào.

Nói về “liêm”, Bác viết: “Những người ở các công sở từ làng cho đến Chính phủ trung ương đều tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ hoặc khoét đục của nhân dân. Đến khi lộ ra, bị phạt thì mất hết cả danh giá mà của phi nghĩa đó cũng không được hưởng. Vậy những người trong công sở phải lấy liêm làm đầu”.

“Liêm là trong sạch, không tham lam”, “luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân”, “không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”, “không tham địa vị, không tham tiền tài, không tham tâng bốc mình”.

Trong các bài viết khác, Bác viết: “Chữ liêm phải đi đôi với chữ kiệm, cũng như chữ kiệm phải đi đôi với chữ cần. Có liệm mới liêm được”. Và, Bác dẫn lời Khổng Tử nói: “Người mà không liêm, không bằng súc vật”. Cụ Mạnh Tử nói: “Ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy”.

Nói về chính, Bác viết: “Một người phải cần, kiệm, nhưng còn phải chính mới là người hoàn toàn. Trên quả đất có hàng muôn triệu người sống, số người ấy có thể chia thành hai hạng: Người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc, song, những công việc ấy có thể chia làm hai thứ: việc chính và việc tà.

Làm việc chính, là người thiện.

Làm việc tà, là người ác.

Siêng năng (cần), tiết kiệm (kiệm), trong sạch (liêm), chính là thiện; còn lười biếng, xa xỉ, tham lam là ác, là tà.

Bác còn dặn: “Mình là người làm việc cần phải có công tâm, công đức. Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư làm việc công. Việc gì cũng phải công minh, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ hay tư thù, tư oán. Mình có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà con, bầu bạn mà bố họ vào chức nọ, chức kia. Chớ vì sợ mất lòng mà dìm những kẻ có tài hơn mình. Phải trung thành với Chính phủ, với đồng bào. Chớ lên mặt làm quan cách mạng”.

Chính còn có nghĩa là ngay thẳng, không tà, là đúng đắn, chính trực. Đối với mình không tự cao, tự đại; đối với người không nịnh trên, khinh dưới, không dối trá, lừa lọc, luôn giữ thái độ chân thành khiêm tốn, đoàn kết. Đối với việc thì để công lên trên lên trước việc tư. Được giao nhiệm vụ gì quyết làm cho kỳ được “việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng phải tránh”. Theo Bác Hồ thì, cần, kiệm, liêm, chính là những đức tính không thể thiếu đối với cán bộ, đảng viên. Bởi vì “cán bộ các cơ quan, đoàn thể; cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút”. “Những người trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ được cần, kiệm, liêm, chính thì dễ trở nên tai hại, biến thành sâu mọt của dân”. Cần, kiệm, liêm, chính là thước đo văn minh, tiến bộ của một dân tộc. “Một dân tộc biết cần, kiệm, liêm là một dân tộc văn minh, tiến bộ”.

Người cán bộ giữ được cần, kiệm, liêm, chính là người chí công, vô tư là chính tâm, thân dân - là người có ý thức phục vụ nhân dân, đặt lợi ích của nhân dân, của tổ quốc, của Đảng lên trên hết.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sáng lập, rèn luyện và lãnh đạo Đảng ta trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin về xây dựng Đảng. Song, Hồ Chí Minh không chỉ quan tâm xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị và tổ chức, mà còn đề cập đến một phương diện khác, đó là xây dựng Đảng về đạo đức cách mạng. Bác Hồ đã mở rộng nội hàm về công tác xây dựng Đảng bao gồm chính trị, tư tưởng, tổ chức và về đạo đức, lối sống. Đây là đóng góp của Chủ tịch Hồ Chí Minh về mặt lý luận trong công tác xây dựng Đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin.

Image
Người đã cho ra đời nhiều văn kiện quan hệ đến vận mệnh của Tổ quốc

Qua nghiên cứu cho thấy từ rất sớm, Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, Bác đã nêu "Tư cách một người cách mạng" ở mục đầu tiên. Bác đề cập đạo đức cách mạng trong 3 mối quan hệ: Tự mình, đối với người, đối với việc.

Tư cách một người kách mệnh:

+ Tự mình phải:

Cần kiệm

Hoà mà không tư

Cả quyết sửa đổi mình

Cẩn thận mà không nhút nhát

Nhẫn nại (chịu khó)

Hay nghiên cứu, xem xét

Vị công, vô tư

Không hiếu danh, không kiêu ngạo

Nói thì phải làm

Giữ chủ nghĩa cho vững

Ít lòng tham muốn về vật chất

Bí mật.

+ Đối với người phải:

Với từng người thì khoan thứ

Với đoàn thể thì nghiêm

Có lòng bày vẽ cho người

Trực mà không táo bạo

Hay xem xét người.

+ Làm việc phải:

Xem xét hoàn cảnh kỹ càng

Quyết đoán

Dũng cảm

Phục tùng đoàn thể.

Theo Bác, muốn làm cách mạng thắng lợi thì người cán bộ cách mạng phải có đạo đức. Vì sự nghiệp cách mạng rất to lớn và bao giờ cũng khó khăn, đòi hỏi sự kiên trì phấn đấu lâu dài của mỗi cá nhân và toàn Đảng. Vì vậy, nếu người cách mạng không có đạo đức thì khó có sức chịu đựng dẻo dai và không thể hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng.

Bác quan niệm, đạo đức cách mạng như gốc của cây, như nguồn của sông. Bác viết “cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không có đạo đức, không có căn bản, tự mình hủ hóa, xấu xa thì làm nổi việc gì?”.

Điều đó cho thấy, Bác Hồ của chúng ta hiểu rõ sức mạnh to lớn của đạo đức cách mạng. Bác từng nói: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh phức tạp, lâu dài và gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng, đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không”. “Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè lùi bước…”, “khi gặp thuận lợi và thành công nhưng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phát, khiêm tốn”, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”, “lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa”.

Bác Hồ thường nhắc nhở cán bộ, đảng viên rằng: “Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời đại biểu cho quyền lợi của dân tộc”. Bác yêu cầu người cách mạng phải thấy rõ điều đó và phải phấn đấu hết mình cho sự nghiệp cao cả và sứ mệnh lịch sử vẻ vang đó. Trong bài viết về đạo đức cách mạng năm 1958, Bác nêu rõ bản chất và nội dung của đạo đức cách mạng, đồng thời cũng nêu rõ những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Trong bài viết này, Bác nêu 5 phẩm chất đạo đức mà cán bộ, đảng viên phải phấn đấu rèn luyện, gìn giữ. Đó là:

- Đạo đức cách mạng là tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân.

- Là ra sức phấn đấu để thực hiện mục tiêu của Đảng.

- Vô luận trong hoàn cảnh nào cũng phải quyết tâm chống mọi kẻ địch, luôn luôn cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu, quyết không chịu khuất phục, không chịu cúi đầu.

- Vô luận trong hoàn cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết.

- Đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng.

Những nội dung trên là phẩm chất cơ bản mà Bác Hồ đòi hỏi người cách mạng phải để làm nền tảng.